Vi bằng của Thừa Phát Lại có gía trị chứng cứ. Tòa án đã sử dụng vi bằng như là chứng cứ để chứng minh việc bị đơn đã được nguyên đơn thông báo việc đòi lại tiền, từ đó tuyên xử thắng kiện cho nguyên đơn.
Đây là một trong nhiều Bản án mà Tòa án đã chấp nhận vi bằng là chứng cứ để giải quyết vụ án, một tín hiệu đáng mừng về sự thừa nhận về giá trị pháp lý của vi bằng, chứng minh quá trình thí điểm Thừa Phát Lại đã phát huy tác dụng tích cực.
Ảnh: Van phòng Thừa Phát Lại Thủ Đức đang lập vi bằng giao thông báo, thu hồi nhà cho thuê. |
Một ngày cuối năm 2014, ông Nguyễn
B.N ngụ tại Phường Tam Phú Q. Thủ Đức đến văn phòng Thừa phát lạin Q. Thủ Đức
và mang theo 2 bản án: Bản án số 32/2014/DS-ST ngày 27/06/2014 về việc tranh
chấp hợp đồng vay tài sản của Tòa án nhân dân Q. Thủ Đức và Bản án số
1518/2014/DS-PT ngày 02/12/2014 của Tòa án nhân dân TP.HCM tuyên hủy Bản án sơ
thẩm số 32 với lý do là nguyên đơn không đủ điều kiện khởi kiện do chưa gửi
thông báo đòi nợ cho bị đơn.
Bà Nguyễn B.N trình bày với Thừa
phát lại rằng, do quen biết nhau nên bà có cho ông Nguyễn T.D ngụ phường Trường
Thọ, Q. Thủ Đức vay số tiền 70.000.000 đồng có viết giấy tay đề ngày
15/10/2011. Trong giấy tay vay mượn, các bên không xác định thời hạn vay là bao
lâu. Kể từ ngày vay đến giữa năm 2014, ông D không đã động gì đến việc trả nợ
cũng như lãi vay dù ông N đã nhiều lần yêu cầu ông D trả nợ. Không còn cách nào
khác, ông N đành làm đơn ra Ủy ban nhân dân Phường Trường Thọ, Q. Thủ Đức nơi
ông D cư trú để nhờ hòa giải. Tuy nhiên, cả 2 lần Phường mời lên hòa giải ông D
đều không có mặt nên UBND phường Trường Thọ ra Thông báo về việc hòa giải không
thành số 200/TB-UBND ngày 30/12/2013.
Ngày 10/01/2014, ông N khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết và chỉ yêu cầu ông D trả số tiền gốc đã vay mà không yêu
cầu trả lãi. Bản án só 32 nói trên của Tòa án Quận Thủ Đức tuyên chấp nhận yêu
cầu của ông N, buộc ông D phải trả số tiền đã vay cho ông N. Tuy nhiên, sau đó,
người đại diện của ông D làm đơn kháng cáo lên Tòa án TP. HCM đề nghị hủy bản
án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án do ông N đã không có thông báo đòi nợ đến
ông D trước khi khởi kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét
xử nhận định: “Không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh ông Nguyễn T.D đã
được ông Nguyễn B. N báo trước về việc đòi nợ nên ngày 10/01/2014, ông
Nguyễn B.N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn T.D trả nợ
là chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại Điều 477 của Bộ luật Dân sự
năm 2005 nhưng Tòa án cáp sơ thẩm thụ lý giải quyết và chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn là không đúng quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 168 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2011” nên
tuyên hủy Bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Đương sự có quyền
nộp đơn khởi kiện lại khi có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định pháp luật.
Nhận thấy việc hỗ trợ ông N lập vi
bằng giao thông báo đòi nợ cho ông D là cần thiết và phù hợp quy định pháp
luật, VP Thừa phát lại Q. Thủ Đức đã lập vi bằng số 196/2014/VB-TPLQ.TĐ ghi
nhận sự kiện nói trên. Ngay sau khi hết hạn trả nợ ghi trong thông báo nhưng
không thấy ông D trả nợ, ông N đã sử dụng vi bằng do Thừa phát lại lập để tiến
hành thủ tục khởi kiện lần 2.
Ngày 29/6/2015, Tòa án nhân dân Quận
Thủ Đức đã đưa vụ án trên ra xét xử. Tại Bản án số 210/2015/DS-ST ngày 29/6/2015
Tòa án nhân dân Q.Thủ Đức nhận xét:
“Ngày
25/12/2014, Văn phòng Thừa Phát Lại Quận Thủ Đức, TP. HCM có lập Vi bằng số
196/2014/VB-TPLQ.TĐ ghi nhận sự kiện, hành vi “ông Nguyễn B.N giao văn bản thông báo về việc đòi trả nợ lập ngày 25/12/2014 cho người nhận là ông Nguyễn T.D
tại địa chỉ phường Trường Thọ, Q. Thủ Đức”. Căn cứ Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại tại
điều 28 quy định”Vi bằng có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết
vụ án”, được sửa đổi ngày 18/10/2013 tại
Nghị định số 135/2013/NĐ-CP quy định “Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập,
ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử”. Như vậy, Vi
bằng số 196/2014/VB-TPLQ.TĐ được coi là chứng cứ ông Nguyễn B.N đã thông báo về
việc đòi nợ cho ông Nguyễn T.D vào ngày 25/12/2014.”
Do đó, cùng với những chứng cứ chứng
minh ông Nguyễn T.D có vay nợ ông Nguyễn B.N , Tòa án nhân dân Quận
Thủ Đức tuyên chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn B.N, buộc ông Nguyễn T.D phải
trả cho ông Nguyễn B.N số tiền là 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng, việc thực
hiện sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Đây là một trong số nhiều vi bằng
của Thừa Phát Lại đã được Tòa án chấp nhận, dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ
án, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người dân.
-
Ông Trịnh Văn Tốt – Phó Trưởng Văn phòng
Thừa Phát Lại Quận Thủ Đức trao đổi thêm:
“
Không chỉ thủ tục khởi kiện đòi nợ không xác định thời hạn đòi hỏi thủ tục giao
thông báo, trong đó xác định rõ số tiền phải trả, và cho một thời gian hợp lý để
trả nợ; mà trong rất nhiều loại việc khác như:
-
Thủ
tục đòi nhà cho thuê, cho ở nhờ;
-
Thủ
tục thông báo quyền ưu tiên mua phần vốn góp, phần sở hữu trong tài sản đồng sở
hữu;
-
Thủ
tục thông báo quyền ưu tiên thuê nhà; mua tài sản;
-
Thông
báo mời họp Hội đồng thành viên, hội đồng kỷ luật, hội đồng quản trị…
-
Thông
báo mời họp để thỏa thuận, giải quyết hợp đồng, tranh chấp;
-
Thông
báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ, yêu cầu đến tổ chức hành nghề công chứng để
hoàn thiện hợp đồng, giao dịch…
Thực
tế cho thấy, việc giao thông báo được thực hiện rất khó khăn, vì bên nhận thông
báo thường bất hợp tác, nên sẽ không nhận, không ký; mặt khác, nếu gửi qua đường
bưu điện thì không bảo đảm tính pháp lý. Vì vậy, tổ chức, cá nhân nên yêu cầu
Thừa Phát Lại lập vi bằng để đảm bảo tính pháp lý. Với sự chứng kiến của Thừa
Phát Lại, dù người nhận thông báo từ chối nhận, thì Thừa Phát Lại vẫn có thể lập
vi bằng.
Vi bằng
được đăng ký tại Sở Tư pháp trong thời hạn 3 ngày làm việc. Vi bằng có giá
trị chứng cứ, chứng cứ chứng minh việc người giao thông báo đã thực hiện nghĩa
vụ giao thông báo, là cơ sở để thực hiện các thủ tục kế tiếp hoặc để Tòa án thụ
lý vụ án.”
Nhờ Thừa phát lại lập vi bằng giao thông báo là cần thiết!
Theo quy định của Điều 477 Bộ luật dân sự 2005 thì “Đối
với hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi thì bên cho vay có quyền đòi
lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải
báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý, nếu không có thoả thuận khác.”
Vậy nên, trước khi khởi kiện tại Tòa án, bên cho vay cần phải thông báo cho
bên vay về việc thanh toán tiền vay hoặc bằng một phương thức khác để bên vay
biết việc đòi tiền vay (hòa giải ở khu phố, ở UBND phường…) Trong trường hợp
trên, mặc dù UBND Phường đã 2 lần gửi giấy mời ông D lên hòa giải nhưng không
có chứng cứ chứng minh ông D đã biết được việc đòi nợ của ông N hay không? Để
thuận tiện nhất cho mình, nếu rơi vào những trường hợp trên thì người dân nên
nhờ Thừa phát lại lập vi bằng giao thông báo, trong đó cho bên vay 1 khoảng
thời gian hợp lý để trả tiền. Vi bằng được đăng ký tại Sở Tư pháp trong thời
hạn 3 ngày làm việc. Hết thời hạn trên mà bên vay vẫn không trả thì bên
cho vay sẽ sử dụng dụng vi bằng để khởi kiện tại Tòa án mà không cần
phải hòa giải ở UBND phường.
(Luật sư Nguyễn Thị Nguyệt Thanh-Văn
phòng Luật sư Việt An Sài Gòn)
|