Vi bằng và giá trị của vi bằng - P3 đăng ký vi bằng

Dẫn nhập:
Sau 6 năm thí điểm, ngày 01/01/2016 Thừa phát lại đã chính thức hoạt động theo Nghị Quyết 107 của Quốc Hội. Hiện nay, Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại đang chuẩn bị được Chính phủ thông qua.
Nhằm giúp mọi người tìm hiểu thêm về vi bằng của Thừa phát lại, Chuyên trang về Vi bằng Thừa phát lại xin giới thiệu những nội dung cơ bản nhất về vi bằng để các bạn tham khảo, với mong muốn mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội đều biết giá trị, ý nghĩa của vi bằng trongquan hệ pháp lý và trong đời sống xã hội, và điều quan trọng là biết khi nào cần đến Văn phòng Thừa phát lại để nhờ hỗ trợ, vì đây là công cụ mà pháp luật dành cho bạn để tự tạo lập chứng cứ, bảo vệ mình trong tranh chấp và các quan hệ pháp lý khác.
Chúng tôi tạm thời chia Chuyên đề thành 3 phần:
-        Phần III: Vấn đề đăng ký vi bằng.
Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn! Thân ái!
 
Thừa phát lại Thủ Đức lập vi bằng giao nhận giấy tờ
Phần III. Vấn đề đăng ký Vi bằng
 

Đăng ký vi bằng là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau từ khi thí điểm cho đến nay, có thể liệt kê 4 phương án như sau: (1) Đăng ký vi bằng thủ tục; (2) Đăng ký vi bằng mà Sở Tư pháp có quyền tư chối đăng ký, nhưng nộp 01 bản chính vi bằng; (3) Đăng ký vi bằng mà Sở Tư pháp có quyền tư chối đăng ký, nhưng nộp 03 bản chính vi bằng; (4) Không đăng ký vi bằng. Lựa chọn phương án bảo đảm hài hòa giữa yêu cầu quản lý Nhà nước, tính chủ động và tự chiu trách nhiệm của Thừa phát lại và lợi ích của người dân là vấn đề cần phải cân nhắc kỹ!

Khi nghiên cứu để đóng góp Dự thảo, và qua 7 năm thực tiễn lập vi bằng, chúng tôi thấy rằng việc lựa chọn phương án nào cũng phải trả lời các câu hỏi: (1) Mục đích của việc đăng ký vi bằng? Đăng ký vi bằng nhằm đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước hay đảm bảo giá trị của vi bằng? (2)Trách nhiệm của VPTPL và Sở Tư pháp tương ứng với mỗi phương án đăng ký vi bằng?  (3)Hình thức thực hiện việc đăng ký như thế nào? (4) Ưu điểm, hạn chế của mỗi phương án đăng ký nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, tính độc lập của TPL và lợi ích của người dân? (5) Sự công khai đăng ký vi bằng như thế nào? Vì vậy, Chúng tôi đã tạo một bảng liệt kê các phương án đăng ký vi bằng trong Phụ lục đính kèm với những tiêu chí như trên. 




Bên cạnh đó, Chúng tôi có ý kiến như sau:

Thứ nhất, Thừa phát lại là người có các tiêu chuẩn, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để lập vi bằng. Thừa phát lại chịu trách nhiệm về vi bằng mình lập, cần được tôn trọng chức năng và trách nhiệm nghề nghiệp của Thừa phát lại trong việc lập vi bằng.

Thứ hai, Vi bằng do Thừa phát lại lập có giá trị “Vi bằng là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án; là căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình; là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật”, trường hợp có tranh chấp về vi bằng thì “các bên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết”. Như vậy, về bản chất, việc lập vi bằng chính là tạo lập chứng cứ. Chỉ có Tòa án mới có quyền ra phán quyết về vi bằng của Thừa phát lại. Ngoài ra, vi bằng còn là căn cứ để thực hiện các công việc khác, không nên áp dụng các phương án đăng ký vi bằng làm giảm tính chủ động trong chuyên môn nghiệp vụ của Thừa phát lại, làm giảm giá trị sử dụng của vi bằng và làm chậm trễ việc sử dụng vi bằng của người dân.
Ví dụ: Cá nhân tôi từng lập vi bằng suốt đêm trên 01 chiếc tàu nước ngoài, neo đậu tại biển Cần giờ, TP. Hồ Chí Minh. Mục đích lập vi bằng là nhằm xác định trên tàu không có hàng hóa được bốc dỡ lên tàu tại 1 cảng nước ngoài, để trình vi bằng cho Ngân hàng ngăn chặn việc chuyển 1.5 triệu USD cho bên Bán theo hợp đồng đã ký (điều kiện chuyển tiền là khi Tàu về đến biển Cần Giờ). Vì bằng phải được thực hiện và hoàn thành ngay trong đêm, để đầu giờ làm việc phải trình ngay cho Ngân hàng. Nếu áp dụng phương thức đăng ký như Dự thảo, phải đợi đến 5 ngày mới có thể sử dụng được vi bằng, thì không thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân.
Thứ ba, việc đăng ký vi bằng cũng không thể bỏ qua vai trò quản lý Nhà nước trong hoạt động lập vi bằng, vốn còn mới mẻ đối với cả Nhà nước lẫn người dân. Nhưng vai trò quản lý của Nhà nước cần được thực hiện thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra chứ không phải làm thay hay “gác cửa” cho Thừa phát lại, không phải kiểm tra phạm vi, hình thức của vi bằng, mà có lúc, có nơi còn kiểm soát cả nội dung của vi bằng.
Vì vậy, Chúng tôi kiến nghị hình thức đăng ký vi bằng như theo quy định tại Nghị định 61, tức là đăng ký vi bằng về mặt thủ tục. Vi bằng sau khi được lập thì VPTPL có trách nhiệm đăng ký 1 bản chính tại Sở Tư pháp đễ lưu trữ, và Sở Tư pháp không có quyền từ chối đăng ký vi bằng. Đồng thời, cần bổ sung trách nhiệm công khai thông tin đăng ký vi bằng trên cổng thông tin đăng ký vi bằng của Sở Tư và trang thông tin điện tử của VPTPL. Mặc khác, đề xuất bổ sung hình thức xử phạt thật nặng đối với hành vi lập vi bằng mà không đăng ký của VPTPL. 
Mới hơn Cũ hơn