GIÁ TRỊ CỦA VI BẰNG (BÀI 3)
Vi bằng Thừa Phát Lại và Văn bản công chứng của
công chứng viên
Khi
đánh giá về ý nghĩa và giá trị của vi bằng, không thể không bàn đến sự phân biệt
Vi bằng Thừa Phát Lại và Văn bản công chứng của công chứng viên, vì nếu không
làm rõ sự khác nhau từ bản chất của vi bằng và văn bản công chứng sẽ dẫn đến
tình trạng buông lỏng quản lý, làm sai lệch giá trị của vi bằng; hoặc ở thái cực
kia, là những điều chỉnh quá mức cần thiết, làm giảm giá trị, phạm vi, thẩm quyền
lập vi bằng, ảnh hưởng đến quyền lợi ích chính đáng của người dân trong việc tạo
lập chứng cứ.
Thực
tế thời gian qua có những trường hợp vi bằng bị nhẫm lẫn với văn bản công chứng,
phổ biến trong lĩnh vực mua bán nhà đất. Tuy nhiên, Việc lập vi bằng của Thừa
phát lại khác hoàn toàn với việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch của công chứng
viên. Công việc của công chứng viên là xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của
hợp đồng giao dịch, văn bản công chứng có giá trị thi hành đối với các bên liên
quan; còn công việc của Thừa phát lại là mô tả lại những gì Thừa phát lại chứng
kiến, tức là xác nhận một sự việc có thật, và vi bằng của Thừa phát lại đảm bảo
một nội dung duy nhất: tính khách quan của sự việc mà Thừa phát lại chứng kiến.
So sánh nhanh Vi bằng và văn bản công chứng |
Thực
tế, trong một số ít trường hợp, khi Thừa phát lại khi lập vi bằng đã không giải
thích kỹ càng với người dân vi bằng được lập chỉ là chứng cứ chứng minh các bên
có giao nhận tiền, nhà đất… mà không thể thay thế văn bản bắt buộc phải công chứng,
dẫn đến trường hợp người dân hiểu nhầm vi bằng của Thừa phát lại thay thế văn bản
công chứng của công chứng viên, từ đó thực hiện các giao dịch không đảm bảo an
toàn pháp lý, và có thể phải gánh chịu thiệt hại. Đây là nhầm lẫn rất đáng tiếc
mà Thừa phát lại phải rút kinh nghiệm khi lập vi bằng cho người dân. Vì vậy, một
số ý kiến cho rằng nên giới hạn phạm vi, thẩm quyền lập vi bằng của Thừa phát lại
để tránh nhầm lẫn, cũng như chồng chéo với thẩm quyền công chứng chứng thực.
Đánh gía về giá trị của vi bằng trong mối quan hệ với văn bản công
chứng, Công chứng viên cũng có nhận định “Thoạt
nhìn, hoạt động của Thừa phát lại có những nét giống với hoạt động của công chứng
viên, nhất là hành vi công chứng và hành vi lập vi bằng. Tuy nhiên hoạt động của
hai chức danh này không hề chồng chéo nhau… Mục đích của hoạt động công chứng
và thừa phát lại đều nhằm hỗ trợ ngăn chặn cũng như giải quyết các tranh chấp,
giúp tổ chức và cá nhân bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp một cách tốt nhất”[1].
Đồng
thời, do phạm vi thẩm quyền khác nhau, Công chứng viên chỉ chứng nhận hợp đồng,
giao dịch bằng văn bản, trong khi đó, Thừa Phát Lại có thẩm quyền lập vi bằng về
mọi sự kiện, hành vi không bị pháp luật cấm, vì vậy, Vi bằng của Thừa Phát lại đã
bổ khuyết, cùng với văn bản công chứng đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho người dân.
Ví dụ như: Trong lĩnh vực mua bán nhà đất, Công chứng viên chỉ chứng nhận hợp đồng,
giao dịch, còn các công đoạn khác như: giao nhận cọc, giao nhận tiền, bàn giao
nhà, ghi nhận hiện trạng nhà… thì công chứng viên không tham gia. Vi bằng của
Thừa phát lại đã bổ khuyết vào chổ trống nói trên, góp phần tạo ra niềm tin,
giúp các bên giao dịch an toàn, thuận lợi.
Ảnh: Thừa Phát Lại Thủ Đức lập vi bằng ghi nhận giao nhận tiền tại Văn phòng Công chứng Việt An, TP.HCM |
Như vậy,
vấn đề hạn chế sự nhầm lẫn về giá trị của vi bằng và văn bản công chứng cần được
giải quyết ở chổ cần tuyên truyền, cần có quy định về trách nhiệm giải thích
pháp luật của Thừa phát lại để người dân hiểu được đâu là giá trị của vi bằng,
đâu là giá trị của văn bản công chứng chứ không cần phải đặt ra một “giới hạn”
cụ thể, bởi vì về bản chất, vi bằng không bao giờ có thể thay thế được văn bản
công chứng. Nếu để cho người dân nhầm lẫn giá trị của vi bằng với văn bản công
chứng thì đó chính là lỗi của Thừa phát lại.
Vì vậy, Chúng tôi đồng tình việc quy định
thủ tục chặt chẽ quy trình lập vi bằng, quy định trách nhiệm giải thích giá trị
vi bằng của Thừa Phát Lại, đồng thời nêu rõ ý nghĩa “không thay thế văn bản công chứng, chứng thực” trong vi bằng để
người dân không nhầm lẫn. Tuy nhiên, Chúng tôi không đồng tình với việc hạn chế
phạm vi, thẩm quyền lập vi bằng, chỉ vì e ngại người dân nhầm lẫn giá trị vi bằng.
Bản chất vi bằng và văn bản công chứng hoàn toàn khác nhau, giải quyết vấn đề
này phải từng bước tác động đến nhận thức, thói quen của xã hội, chứ không phải
bằng biện pháp hạn chế giá trị của vi bằng.
[1] Xem tham luận của
Phòng Công chứng số 1 Thành phố Hồ Chí Minh, “So sánh phạm vi lập văn bản công chứng với lập vi bằng - đánh giá, nhận
xét về sự độc lập, giá trị của hai loại văn bản đối với các mối quan hệ pháp lý
trong xã hội”, Tài liệu tọa đàm về Vi bằng, Sở Tư pháp TP.HCM ngày 24/7/2015, tr 26.