Yêu cầu Tòa án xét
xử là biện pháp cuối cùng trong việc giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, bản ản,
quyết định của Tòa án chỉ mới đảm bảo quyền lợi của công dân, tổ chức trên giấy
tờ. Để khôi phục được quyền lợi của mình, nếu NPTHA không tự nguyện thực hiện, NĐTHA
chỉ còn cách yêu cầu cơ quan thi hành án hoặc Văn phòng thừa phát lại tổ chức
thi hành án.
Để bản án, quyết
định được thi hành, NPTHA phải có điều kiện thi hành án, tức là phải có tài
sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản. Việc không chứng minh được NPTHA
có điều kiện thi hành án là một trong những căn cứ đầu tiên và quan trọng để cơ
quan thi hành án đình chỉ thi hành án hoặc trả đơn yêu cầu. Sau khi Luật thi
hành án dân sự 2008 ra đời, nhiều cơ quan thi hành án dân sự còn yêu cầu bên
được thi hành án phải chứng minh điều kiện thi hành án của đương sự trong đơn
yêu cầu thi hành án thì mới thụ lý. Thực tiễn hoạt động trong bốn tháng qua,
các Văn phòng Thừa phát lại nhận không ít yêu cầu XMĐKTHA để nộp đơn thi hành
án hoặc để tiếp tục được tổ chức thi hành án như:
Công ty TNHH N.P
sau khi được Tòa án quận T ra quyết định công nhận sự thỏa thuận, buộc công ty
TNHH N.H phải trả cho công ty N.P số tiền 600 triệu đồng. Sau khi nộp đơn yêu
cầu thi hành án, mặc dù đã có biên bản của Chính quyền địa phương về việc xác
nhận công ty N.H vẫn đang hoạt động bình thường tại trụ sở đăng ký, nhưng sau
đó, Chi cục thi hành án quận T đã ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án vì
công ty N.P không cung cấp được điều kiện thi hành án của công ty N.H.
Tòa án quận H
tuyên buộc ông T.H.B phải trả cho ông N.V.A số tiền 50 triệu đồng, nhưng khi
ông A nộp đơn yêu cầu thi hành án lên Chi cục thi hành án quận H thì không được
thụ lý vì ông A chưa chứng minh được điều kiện thi hành án của ông B trong đơn
yêu cầu thi hành án.
Trong cả hai
trường hợp nói trên, công ty N.P hay ông N.V.A sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong
việc XMĐKTHA. Bên cạnh việc thiếu chuyên môn, nghiệp vụ trong công tác xác
minh, ngay cả trong trường hợp biết rằng bên phải thi hành án có tài sản là
nhà, đất tại địa điểm X, hoặc có tài khoản tại ngân hàng Y thì cá nhân ông A
khó có thể đề nghị chính quyền hoặc ngân hàng cung cấp thông tin về tài sản đó.
Thực tiễn nói trên
được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như những người làm công tác
thi hành án. Gần đây nhất, trong buổi Tọa đàm đánh giá những kết quả và vướng
mắc, bất cập sau 01 năm thi hành Luật thi hành án dân sự ngày 17-18/6/2010 tại
Vũng Tàu, nhiều tham luận của cơ quan thi hành án đã phân tích những bất cập
của Điều 44 Luật thi hành án dân sự 2008, cho rằng Điều luật không chỉ gây ra
khó khăn cho người dân mà còn làm khó cho cả cơ quan thi hành án trong việc chủ
động tổ chức thi hành án. Không thể phủ nhận tính đúng đắn của những quan điểm
nói trên, nhưng sau khi Nghị định 61/2009/Cp được ban hành, với sự ra đời của
Thừa phát lại, những hạn chế nói trên đã được giải quyết. Do chế định Thừa phát
lại còn trong giai đoạn thí điểm tại TP.Hồ Chí Minh, người dân, doanh nghiệp ở
các địa phương khác còn phải chờ thí điểm thành công mới có thể hưởng lợi từ
chế định Thừa phát lại khi mô hình này được nhân rộng ra cả nước.
2. Ai có thẩm quyền XMĐKTHA?
Trước tiên, phải
khẳng định rằng, người có thẩm quyền XMĐKTHA chính là NĐTHA. Luật quy định NĐTHA
có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác tiến hành xác minh, các tổ chức,
cá nhân nắm giữ thông tin có trách nhiệm cung cấp thông tin cho NĐTHA, nếu cố
tình cung cấp thông tin sai phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên,
thực tiễn cho thấy việc XMĐKTHA của NĐTHA gặp nhiều khó khăn do nguyên nhân chủ
quan lẫn khách quan như đã phân tích ở trên.
Khi không thể tự
mình XMĐKTHA, NĐTHA có quyền yêu cầu chấp hành viên XMĐKTHA. Tuy nhiên, chấp
hành viên chỉ tiến hành XMĐKTHA khi có hai điều kiện: Thứ nhất, có yêu cầu của NĐTHA; thứ hai, NĐTHA đã áp dụng các biện pháp
cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án. Việc yêu cầu này
phải được lập thành văn bản và phải ghi rõ các biện pháp đã được áp dụng nhưng
không có kết quả, kèm theo tài liệu chứng minh.
Để tạo điều kiện
thuận lợi cho NĐTHA, Luật cũng quy định việc xác minh được coi là không có kết
quả khi NĐTHA đã trực tiếp hoặc yêu cầu bằng văn bản nhưng đã quá thời hạn 01
tháng, kể từ ngày yêu cầu nhưng không nhận được văn bản trả lời của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền mà không có lý do chính đáng. Quy định này đã “mở
nút” cho NĐTHA có điều kiện bảo vệ quyền
lợi chính đáng của mình. Tuy nhiên, quyền năng này chưa được thực hiện một cách
đầy đủ và hiệu quả vì: thứ nhất, do
hạn chế về kiến thức pháp luật, người dân chưa nhận thức đầy đủ về quyền và
nghĩa vụ của mình trong quá trình được thi hành án; thứ hai, trong bối cảnh phải thụ lý quá nhiều việc, chấp hành viên
không có đủ thời gian để tiến hành XMĐKTHA;
thứ ba, pháp luật hiện nay chưa quy định về mức phí XMĐKTHA, việc triễn
khai quy định này gặp nhiều khó khăn do cơ quan thi hành án không biết thu phí XMĐKTHA
như thế nào? Thu bao nhiêu? Trích nộp ra sao… hơn nữa, đối với doanh nghiệp,
việc cung cấp các hoá đơn, chứng từ trong hoạt động thi hành án cũng là một yêu
cầu quan trọng.
Cuối cùng, khi
không thể tự mình XMĐKTHA, cũng không thể yêu cầu chấp hành viên XMĐKTHA, hiện
nay, NĐTHA đã có thêm một sự lựa chọn, đó là ủy quyền Thừa phát lại xác minh
thay cho mình.
3. Thẩm quyền XMĐKTHA của Thừa
phát lại và sự chia sẽ trách nhiệm
XMĐKTHA là một
trong bốn chức năng của Thừa phát lại. Việc XMĐKTHA trong một việc thi hành án
cụ thể phát sinh từ yêu cầu của NĐTHA thông qua một hợp đồng dịch vụ. Việc XMĐKTHA
của Thừa phát lại có một số đặc điểm thuận lợi:
Thứ nhất: Thừa
phát lại là chức danh tư pháp do Nhà nước bổ nhiệm, có thẩm quyền XMĐKTHA, được
Nhà nước đảm bảo điều kiện hoạt động. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm
vi thẩm quyền của mình có trách nhiệm cung cấp thông tin cho Thừa phát lại, nếu
từ chối mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Mặt khác, Thừa phát lại có kiến
thức pháp luật và có kỹ năng, nghiệp vụ, do đó, việc xác minh mang lại kết quả
nhanh chóng và chất lượng.
Thứ hai, Văn
phòng Thừa phát lại hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, hạch toán độc lập, hoạt
động XMĐKTHA của Thừa phát lại mang tính chất dịch vụ. Văn phòng Thừa phát lại
chỉ có thể duy trì hoạt động từ nguồn thu là phí dịch vụ của khách hàng, do đó
luôn phải đảm bảo hoàn thành công việc của mình một cách kịp thời và hiệu quả.
Thứ ba, mức
phí xác minh do hai bên tự thỏa thuận, thể hiện trong hợp đồng dịch vụ. Thực
tiễn hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại cho thấy, hiện nay đang tồn tại
hai phương thức thu phí: (1) thu phí theo việc xác minh cụ thể (ví dụ xác minh
ngôi nhà tại địa chỉ X do ai đứng tên sở hữu, Văn phòng Thừa phát lại thu phí
khi cung cấp kết quả xác minh, bất kể ai là người đứng tên sở hữu nhà); thu phí
theo tỉ lệ thu hồi được tài sản từ hoạt động thi hành án (theo phương thức này,
Văn phòng Thừa phát lại chỉ có thể thu được phí nếu việc tổ chức thi hành án có
hiệu quả, tài sản thu hồi được).
Thứ tư, kết
quả XMĐKTHA của Thừa phát lại là căn cứ để NĐTHA nộp đơn yêu cầu thi hành án
hoặc cung cấp cho cơ quan thi hành án, Văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền tổ
chức thi hành án. Nếu các cơ quan này từ chối sử dụng kết quả xác minh thì phải
trả lời bằng văn bản, nêu rõ lý do từ chối và phải chịu trách nhiệm về hành vi
của mình.
Thứ
năm, về phạm vi xác minh, Thừa phát lại có quyền XMĐKTHA liên
quan đến việc thi hành án mà vụ việc đó thuộc thẩm quyền thi hành của các cơ
quan thi hành án dân sự tại thành phố Hồ Chí Minh, bất kể tài sản nằm trong hay
ngoài phạm vi TP.Hồ Chí Minh.
Như vậy, sự ra đời của thừa phát lại, với
những ưu điểm vốn có, đã tạo thêm một sự lựa chọn mới cho người dân, doanh
nghiệp trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Không những thế, Thừa
phát lại còn chia sẽ gánh nặng với các chấp hành viên trong việc XMĐKTHA – một
trong những nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng tồn đọng việc thi hành án hiện
nay, góp phần giảm tải và tăng chất lượng hoạt động thi hành án. Tuy nhiên, để kết
quả xác minh điều kiện thi hành án đạt hiệu quả thiết thực, còn đòi hỏi phải có
cơ chế phối hợp cũng như chia sẽ trách nhiệm xác minh và sử dụng kết quả xác
minh giữa Văn phòng Thừa phát lại (nơi cung cấp kết quả xác minh) và cơ quan
thi hành án (nơi sử dụng kết quả xác minh), nhằm mục đích cuối cùng là đảm bảo
quyền lợi chính đáng của người dân, doanh nghiệp.
Thừa phát lại Nguyễn Tiến Pháp - Văn phòng Thừa phát lại Bình Thạnh